Đã đến lúc phải hành động quyết liệt hơn để làm sạch không khí vì sức khỏe người dân
Ô nhiễm không khí có hại cho sức khỏe con người.
- Phơi nhiễm với hàm lượng các hạt rắn cao trong không khí, đặc biệt các hạt bụi mịn có kích thước 2.5 micrô-mét hoặc nhỏ hơn (PM2.5) làm tăng nguy cơ mắc các bệnh liên quan tới ô nhiễm không khí, bao gồm nhiễm trùng cấp tính đường hô hấp dưới, đột quỵ, đau tim, bệnh tắc nghẽn phổi mãn tính và ung thư phổi.
- Quá nhiều khí Ô-zôn trong không khí có thể làm ảnh hưởng tới sức khỏe, gây ra các vấn đề về hô hấp, khơi mào bệnh hen suyễn, suy giảm chức năng của phổi và dẫn đến các bệnh về phổi.
- Phơi nhiễm với khí NO2 sẽ làm trầm trọng thêm các triệu chứng viêm phế quản ở trẻ em đang mắc bệnh hen suyễn.
- Khí SO2 có thể ảnh hưởng tới hệ hô hấp và các chức năng của phổi và gây ngứa rát, khó chịu cho mắt.
Hướng dẫn của Tổ chức Y tế Thế giới về chất lượng không khí được xây dựng trên cơ sở đánh giá của các chuyên gia về các bằng chứng khoa học hiện có và được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Thật không may là 91% dân số toàn cầu hiện đang sống ở những nơi mà chất lượng không khí chưa đáp ứng với khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Năm 2016, Tổ chức Y tế Thế giới ước tính rằng ô nhiễm không khí bên ngoài và ô nhiễm không khí trong nhà gây ra 7 triệu tử vong sớm mỗi năm trên toàn cầu.
Ở Việt Nam, hơn 60.000 người chết vì bệnh tim, đột quỵ, ung thư phổi, tắc nghẽn phổi mãn tính trong năm 2016 đều do ô nhiễm không khí gây ra. Ô nhiễm không khí được coi là một kẻ giết người vô hình, thầm lặng.
Nồng độ các chất gây ô nhiễm trong không khí thay đổi tùy theo địa điểm, theo giờ, theo ngày và theo mùa vì chịu sự ảnh hưởng của sự chuyển động của các chất gây ô nhiễm, của gió và thời tiết v.v. Ví dụ, chất lượng không khí ở Hà Nội kém hơn vào mùa đông so với mùa hè. Tuy nhiên, trong năm nay, chất lượng không khí trong khoảng nửa sau tháng 9 trở nên rất kém so với cùng kỳ các năm trước đây.
Các mục tiêu liên quan tới chất lượng không khí là một phần của các Mục tiêu phát triển bền vững mà Liên Hợp Quốc kêu gọi phải hành động ở cấp độ toàn cầu sao cho đến năm 2030, chúng ta sẽ:
- Giảm đáng kể số ca tử vong và số ca mắc bệnh do ô nhiễm không khí gây ra (Mục tiêu SDG3.9); và
- Giảm tác động môi trường có hại của các thành phố tính trên đầu người, bằng cách quan tâm hơn tới chất lượng không khí (Mục tiêu SDG 11.6)
Ở Việt Nam, Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Kế hoạch hành động quản lý chất lượng không khí đến năm 2020 với tầm nhìn tới năm 2025 (Quyết định Số 9851/QD-TTG) năm 2016, trong đó đề ra các hoạt động bao gồm việc xác định và theo dõi các nguồn ô nhiễm và giám sát chất lượng không khí ở tất cả các cấp – sẽ góp phần phổ biến các hành động hướng đến cải thiện chất lượng không khí.
Vì chất lượng không khí ở các thành phố lớn của Việt Nam đang trở nên xấu đi trong những năm qua, bây giờ chính là lúc cần phải triển khai thực hiện kế hoạch trên đây và phải hành động quyết liệt. Chính phủ, ở cấp trung ương và các cấp địa phương, cần phải cân nhắc các hành động sau đây hướng đến không khí sạch và cải thiện sức khỏe của người dân.
Trước tiên, chính phủ cần tăng cường năng lực hệ thống theo dõi, giám sát chất lượng không khí và chia sẻ thông tin, số liệu với công chúng. Hiện nay, số lượng các trạm quan trắc chất lượng không khí vẫn còn hạn chế. Cần đặt nhiều trạm quan trắc hơn nữa và đưa các trạm này vào hoạt động. Do các trạm quan trắc chính thống có chi phícao, cần cân nhắc thay thế bằng các thiết bị theo dõi, quan trắc cảm biến có giá thành thấp hơn. Số liệu về chất lượng không khí của Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh cần được đo ở chế độ thời gian thực. Mặc dù thông tin về chất lượng không khí của Hà Nội và Tp. Hồ Chí Minh đã có trên trang web, tuy nhiên, không phải ai cũng có thể biết được về kênh thông tin này và thậm chí còn nhiều người chưa có khả năng truy cập được nguồn thông tin này. Mặt khác, nhiều người hiện nay đang sử dụng các ứng dụng của điện thoại thông minh để theo dõi chất lượng không khí. Như vậy, chính phủ có thể cân nhắc việc phổ biến thông tin theo dõi chất lượng không khí thông qua ứng dụng dành cho điện thoại thông minh.
Thứ hai, để bảo vệ sức khỏe người dân, chính phủ cần tăng cường các biện pháp khẩn cấp để giảm thiểu phát thải khí trong giai đoạn ô nhiễm không khí vượt quá mức khuyến cáo của Tổ chức Y tế Thế giới. Chỉ số Chất lượng Không khí có thể là một hướng dẫn hữu ích để kích hoạt các hành động khẩn cấp của chính phủ để kiểm soát phát thải ô nhiễm. Các hành động này có thể nhắm tới các cơ sở công nghiệp, các nhà máy phát điện, ngành giao thông vận tải, các cơ sở quản lý chất thải và hoạt động đốt rơm rạ. Các thành phố cũng có thể tăng cường tần suất làm sạch đường phố bằng việc phun nước để giảm thiểu bụi đường do Công ty môi trường đô thi (URENCO) thực hiện.
Thứ ba – các nguồn ô nhiễm không khí cần được xác định thấu đáo và cần xây dựng và triển khai thực hiện kế hoạch dài hạn nhằm đảm bảo không khí sạch. Hầu hết các nguồn ô nhiễm không khí ngoài trời nằm ngoài khả năng kiểm soát của các cá nhân người dân và do vậy, cần phải có sự phối hợp của các nhà hoạch định chính sách từ cấp địa phương, đến cấp trung ương và quốc tế. Điều này có nghĩa là, ngay cả trong giai đoạn ô nhiễm không khí thấp, các cơ quan chức năng trong ngành giao thông vận tải, năng lượng và quản lý chất thải, quy hoạch đô thị và nông nghiệp cũng vẫn cần phối hợp cùng nhau để đảm bảo không khí sạch. Có rất nhiều ví dụ về các chính sách thành công giúp giảm ô nhiễm không khí:
- Đối với các ngành công nghiệp: các công nghệ sạch nhằm giảm phát thải khí công nghiệp; cải thiện công tác quản lý chất thải đô thị và nông nghiệp, bao gồm thu hồi khí mê-tan thoát ra từ bãi thải để thay thế phương án đốt rác thải (sử dụng khí sinh học);
- Đối với ngành năng lượng: đảm bảo tiếp cận các giải pháp năng lượng sạch tại hộ gia đình và có thể chi trả được để đun nấu, sưởi ấm và chiếu sáng;
- Đối với ngành giao thông: ưu tiên phương tiện vận chuyển đô thị tốc độ cao, các mạng lưới đi bộ và đi xe đạp trong thành phố, cũng như vận chuyển hàng hóa và hành khách bằng đường sắt giữa các đô thị; chuyển đổi sang các phương tiện chạy dầu đie-zen sạch hơn và các phương tiện ít phát thải và nhiên liệu sạch hơn, bao gồm nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh thấp.
- Đối với quy hoạch đô thị: cải thiện hiệu quả sử dụng năng lượng của các tòa nhà và làm cho thành phố xanh hơn, kết cấu chặt chẽ hơn, dẫn đến hiệu quả sử dụng năng lượng lớn hơn.
- Đối với ngành điện: tăng việc sử dụng các nhiên liệu ít phát thải và các nguồn năng lượng không đốt, có thể tái tạo được (như năng lượng mặt trời, năng lượng gió và thủy điện); kết hợp sản xuất nhiệt và điện; và phát điện phân phối (ví dụ, điện lưới nhỏ và phát điện mặt trời trên mái nhà)
- Đối với quản lý chất thải đô thị và chất thải nông nghiệp: các chiến lược giảm chất thải, phân loại chất thải, tái chế, tái sử dụng hoặc xử lý chất thải, cũng như các phương pháp cải thiện quản lý chất thải sinh học như phân hủy yếm khí chất thải để sản xuất khí sinh học, là những giải pháp thay thế khả thi với chi phí thấp thay cho thiêu đốt ngoài trời chất thải rắn; ở những nơi mà việc thiêu đốt rác là không thể tránh được thì các công nghệ đốt có kiểm soát khí thải chặt chẽ là hết sức cần thiết.
Ô nhiễm không khí là một trong những vấn đề sức khỏe cộng đồng quan trọng nhất ở các thành phố lớn của các nước đang phát triển. Ô nhiễm không khí ảnh hưởng tới tất cả chúng ta, và chính phủ cần thực hiện vai trò lãnh đạo của mình trong việc kiểm soát phát thải khí một cách quyết liệt, đặc biệt trong giai đoạn có ô nhiễm nghiêm trọng. Chính phủ, xã hội dân sự và các cơ quan đối tác quốc tế cần phối hợp với nhau để tìm ra các giải pháp trung hạn và dài hạn để phòng ngừa ô nhiễm không khí ngay từ nguồn. Bây giờ chính là lúc cần hành động quyết liệt vì không khí sạch và vì sức khỏe cộng đồng.